- Ngày ra mắt: 30/07/2009
- Mức giá: 599 USD kèm kit 18-55mm ( lúc ra mắt )
- Cảm biến: Crop ( DX sensor / APS-C )
- Phân khúc: Entry-level ( Entry-level ► Upper-entry-level ► Midrange ► High-end ► Professional )
- Cấu hình chi tiết:
Hãng sản xuất |
Nikon Inc |
Độ lớn màn hình LCD(inch) |
3.0 inch |
Megapixel (Số điểm ảnh hiệu dụng) |
10.2 Megapixel |
Kích thước cảm biến (Sensor size) |
APS-C (23.6 x 15.8 mm) |
Bộ cảm biến hình ảnh (Image Sensor) |
CCD |
Độ nhạy sáng (ISO) |
Auto, 100, 200, 400, 800, 1600, (plus 3200 with boost) |
Độ phân giải ảnh lớn nhất |
3872 x 2592 |
Tốc độ chụp (Shutter Speed) |
30 sec - 1/4000 sec |
Lấy nét tự động (Auto Focus) |
|
Định dạng File ảnh (File format) |
• JPG
• RAW |
Tính năng |
• In-camera raw conversion
• EyeFi |
Chuẩn giao tiếp |
• USB
• Video Out (NTSC/PAL)
• HDMI |
Loại pin sử dụng |
• Lithium-Ion (Li-Ion) |
Cable kèm theo |
• Cable USB |
Loại thẻ nhớ |
• Secure Digital Card (SD)
• SD High Capacity (SDHC) |
Kích cỡ máy (Dimensions) |
126 x 97 x 64 mm (5 x 3.8 x 2.5 in) |
Trọng lượng Camera |
485g |
|
|
Trong khi nhiều tay chụp ảnh đang rục rịch chuyển từ máy dạng bấm chụp sang máy DSLR, nhiều nhà sản xuất máy ảnh vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm để xác định kiểu thiết kế phù hợp nào và đặc tính hoạt động nào sẽ tốt cho một chiếc máy ảnh nhất. Tuy vậy, có vẻ như Nikon đang có những bước tiến xa nhất trong giai đoạn này. Chiếc D3000 dành cho những người mới chơi có những chế độ hướng dẫn cách chụp mà không phải từ bỏ cách chụp bằng tay truyền thống như trên các máy DSLR. Dù lý do là gì thì D3000 là một bước đi khôn ngoan, vừa đơn giản vừa tiết kiệm chi phí, nhưng những tính năng của D3000 cũng bị giảm thiểu, may là sự vận hành và chất lượng hình ảnh vẫn tốt.
Chiếc D3000 có bề ngoài và các chức năng như một chiếc DSLR rẻ tiền, dòng cấp thấp. D3000 nặng hơn các dòng cùng loại, khá cứng cáp với một tay nắm khá đẹp. Với nút “Fn” đã được lập trình sẵn, bạn chỉ cần thiết lập thời gian, kiểm soát hẹn giờ, chế độ chụp, chất lượng hình ảnh, độ nhạy ISO, cân bằng trắng, hoặc Active D-Lighting menu, cũng như để chuyển một màn hình hiển thị lưới trong kính nhòm - nằm ở dưới ngón tay cái bên trái của bạn, tuy vậy cũng có một chút khó khăn để phân biệt với các nút pop-up/compensation flash. Đằng sau nút chụp được khoanh vùng bởi nút chuyển nguồn là nút bù sáng và các nút thông tin. Những nút sau này giúp bật tắt màn hình hiển thị trở lại.
Như thường lệ, chế độ đầu bị tách riêng biệt khỏi cảnh chụp, PASM và chế độ tự động hoàn toàn. Nikon còn cung cấp thêm một chế độ hướng dẫn từng bước cho một số cảnh chụp nhất định. D3000 còn có một chế dộ vận hành Easy, có chức năng tương tự chế độ Auto, cho phép bạn truy cập một số lựa chọn nhất định cũng như chế độ nâng cao cho phép cải đặt những phân cảnh đã được chọn và sau đó cho phép bạn thay đổi các thiết lập cho mình. Ví dụ, trong chế độ Easy, độ chụp và cài đặt chế độ khu vực AF. Các tùy chọn này tuy không cụ thể cho từng phân cảnh nhưng cũng khá hữu ích. Tôi chỉ có một ý kiến nhỏ là nút điều khiển không thực hiện chức năng tốt khi chụp bình thường. Chẳng hạn như khi bạn chỉnh tốc độ chụp với nút lên/xuống nhờ vào bộ chọn đa năng trong khi đó bình thường bạn đều sử dụng lệnh điều khiển để thay đổi tốc độ, thì việc này có thể sẽ gây nhầm lẫn cho một số người.
Tôi cũng tính năng bổ sung của Nikon giúp màn hình hiển thị thông tin tương tác. Các tùy chọn điều chỉnh được sắp xếp xung quanh các cạnh của màn hình, làm cho việc tìm kiếm dễ dàng hơn so với các màn hình bố trí lộn xộn của đối thủ. Mặt khác, bạn không phải di chuyển liên tục qua các tùy chọn, không cần nhấn nút điều khiển lên, xuống, trái, phải. Điều duy nhất tôi cảm thấy không hài lòng chính là đối với tổ hợp nút đa chọn với 4 nút lên, xuống, trái, phải và nút OK ở giữa. Tuy nhiên, bạn có thể đọc màn hình LCD trong ánh sáng mặt trời trực tiếp một cách dễ dàng.
Mặt khác, Nikon giới thiệu một số tính năng playtime. Sau khi chụp bạn có thể xây dựng phim stop-motion từ những hình ảnh được chọn trên thẻ SD hoặc áp dụng một vùng mờ có chọn lọc ở chế độ Miniature effect. Chế độ này sẽ cho phép bạn kích hoạt hoặc vô hiệu hóa tải lên nếu bạn có một thẻ Eye-Fi. Thêm vào đó, Nikon thêm một dòng chữ ngày tháng ở các bức ảnh. Nhưng có rất nhiều tính năng hữu ích lại không có khi so sánh với đối thủ của dòng D3000 này như không có điều khiển flash không dây và cổng HDM. D3000 còn thiếu chế độ phơi sáng đơn giản và phơi sáng mở rộng với đèn flash.
D3000 được đánh giá trung bình, ngoại trừ có thời gian khởi động rất nhanh. Thật kỳ lạ, bởi vì D3000 không được cải tiến thêm về độ phân giải và hệ thống AF. Tôi đoán những điểm AF thêm vào không những sẽ giúp tăng độ chính xác mà còn khá tốn năng lượng vận hành. D3000 không hề chậm, chỉ là không được nhanh như các máy hàng đầu như Pentax K2000. D3000 khởi động và chụp trong khoảng 0,2 giây, và trong điều kiện sáng tập trung thì tốc độ là 0,4 giây, trong điều kiện thiếu sáng thì tốc độ là 0.8 giây. D3000 thường mất khoảng 0,6 giây để chụp hai bức ảnh liên tiếp, và tăng lên 0,9 giây khi có thêm đèn flash.
Đối với chất lượng hình ảnh, hầu hết các số liệu cho thấy D3000 cho chất lượng các lớp rất tốt. Màu sắc hình ảnh chụp được hầu như hoàn hảo nhờ vào bộ lọc nhiễu cho độ nhạy ISO tầm trung. Màu sắc, phơi sáng, độ sắc nét nhìn chung rất tốt và độ nhiễu ít hơn so với các dòng máy cạnh tranh khác, hình ảnh có thể sử dụng lên đến ISO 1600, tùy thuộc vào ngữ cảnh.
Nếu bạn đang tìm một chiếc máy DSLR bấm chụp theo từng bước, D3000 là chiếc máy bạn đnag cần, đặc biệt là đối với người mới chụp ảnh. Nhưng nếu bạn dư dả, bạn nên mua dòng D5000 với các tính năng mạnh mẽ hơn, nhanh hơn và chất lượng hình ảnh tốt hơn.
* Lưu ý:
Những thông tin ở trên chỉ mang tính tham khảo vì nó có thể chỉ đúng ở thời điểm ra mắt. Nếu bạn phát hiện thông thông tin sai xin hãy comment vào bên dưới để chúng tôi điều chỉnh thông tin chính xác nhất. Xin trân trọng cảm ơn bạn!